Theo nguồn tin phân tích của các tổ chức quân sự ở Mỹ đánh giá , Việt Nam hiện nay có khoảng:
5.5 vạn hải quân , 5 tàu hộ vệ , 6 tàu hộ vệ hạng nhẹ , 12 tàu quét ngư lôi , 16 tàu phóng tên lửa , 10 tàu ngư lôi , 7 tàu đổ bộ lớn , 30 tàu đổ bộ hạng nhẹ , 55 tàu tuần tiểu nhỏ và một số tàu chiến dạng ca nô . Tuy nhiên theo nhận định tất cả đều cũ và rất lạc hậu , khả năng tác chiến thấp . ( Số liệu theo năm 2006 )
Vì vậy cũng theo các báo nước ngoài có đưa tin Việt Nam đã ký kết với một công ty xuất khẩu vũ khí của Nga về hợp đồng đặt mua 2 chiến hạm loại hiện đại nhất hiện nay với tổng giá trị tiền là 300 triệu USD . Hai chiến hạm được xem là một trong những chiến hạm hiện đại nhất trong khu vực đông nam á và có thể so sánh với Châu Á . Sau khi Việt Nam có tàu này thì Việt Nam có thể được xem như là một cường quốc hải quân trong khu vực . Hợp đồng được cho là sẽ giao hàng vào cuối năm 2007 .
Theo đánh giá , chiến hạm này có khả năng tác chiến rất cao , có khả năng chở trực thăng chiến đấu hiện đại , có khả năng thả và băn ngư lôi tầm xa , có khả năng ẩn mình và tốc độ tàu cực nhanh , tàu có khả năng phóng tên lửa và chống được tên lửa đạn đạo , có khả năng bắn và chịu đựng được pháo cối cực mạnh .
Ngoài ra theo một số báo thì Việt Nam cũng công bố với thế giới về việc đầu tư 500 triệu USD để xây một hải cảng quân sự lớn ở Hải Phòng . Hải cảng quân sự này có thể chứa được những chiến hạm với siêu trọng tải đám ứng được nhu cầu của hải quân .
Sắp tới hải quân Việt Nam sẽ có thể nâng lên một tầm cao mới , giúp Việt Nam có thể chống được kẻ thù và bảo vệ được sự toàn vẹn lãnh thổ .
Ngoài ra Việt Nam mình có thêm một tin mừng mới là chính phủ Việt Nam thời gian vừa rồi sau nhiều chuyến thăm Ấn Độ cũng có đề cập đến vấn đề mua 2 loại tên lửa hiện đại Brahmos và Prithvi I hoặc II . Prithvi II tên lửa này là một trong những niềm tự hào của Ấn Độ . Tên lửa được đánh giá có khả năng cơ động cao , trong quá trình tần công mục tiêu có thể thay đổi 6 độ cao khác nhau gây khó khăn cho tên lửa đánh chặn của đối phương , thêm nữa lại được sơn một lớp sơn đặc biệt chống được ra đa , tầm hoạt động có thể lên đến 350 km , đặc biệt tên lửa còn có khả năng mang đầu đạn hạt nhân tăng sự khả năng uy hiếp đối phương .
. Tên lửa Brahmos ( tên lửa do Ấn Độ cùng Nga nghiên cứu chế tạo ) , còn gọi là tên lửa siêu thanh , nhanh gấp 2 lần vận tốc âm thanh - tăng khả năng chọc thủng hệ thống đánh chặn của đối phương , có khả năn thay đổi mục tiêu ngay trên không trong khoảng 20 km tính từ mục tiêu đến tên lửa , tên lửa tác chiến trong tầm 300 km . Cả hai loại vũ khí đều có thể lắp đặt vào tàu chiến đầu , tàu ngầm , trên xe hoặc trên mặt đầu đều được .
Tuy nhiên đây chỉ là đề xuất của Việt Nam với Ấn Độ , việc Ấn Độ có đồng ý bán hay không còn rất nhiều vấn đề cần giải quyết . Vì đây là những vũ khí tâm huyết của Ấn Độ , họ chỉ bán cho đồng minh . Nhưng trong thời gian vừa qua VN và Ấn cũng đã có rất nhiều ký kết về hợp tác mua bán vũ khí kể cả vũ khí quốc phòng của Ấn và là những nước được ưu tiên đầu tiên trong buôn bán vũ khí với Ấn Độ . Vì vậy cũng có rất nhiều hi vọng sẽ mua được .
Đây là hình mẫu tên lửa SU-300PMU mà Việt Nam dự định mua
Tên lửa Brahmos mà Việt Nam dự định mua :
Và đây là tên lửa Prithvi I mà Việt Nam dự định mua của Ấn Độ :
Tăng mức chi cho nhập khẩu vũ khí trang bị cho giai đoạn 2008-2015 lên mức bình quân 700-800 triệu USD/năm so với như hiện nay là khoảng 300-400 triệu USD/năm. Làm một phép tính đơn giản là ta có xấp xỉ 6 tỷ USD để mua sắm cho cả giai đoạn. Chia ra như sau:
Hải quân và hải quân đánh bộ: 2.800 triệu USD
PKKQ: 2.100 triệu USD
Lục quân: 1.100 triệu USD
Để xem với 2.400 triệu USD cho mua sắm, hải quân sẽ tậu được những hàng gì:
- Thêm 4 chú Gepard 3.9 mang tên lửa Uran-E (SS-N-25) đóng tại VN theo sự chuyển giao công nghệ của Nga. Giao hàng 2011-2013 (mỗi năm đầu giao 1 chiếc, năm cuối giao 2 chiếc) tổng trị giá 400 triệu USD. Do đóng trong nước nên giá giảm đôi chút, xuống còn bình quân 100 triệu USD/tàu so với 125 triệu USD/tàu do Nga đóng.
- Mua 2 chú Krivak-III lớp 1135.6 mang tên lửa Club-N (SS-N-27, hiện đại hơn SS-N-22 của Khựa) và đóng 2 chú tại VN theo sự chuyển giao công nghệ của Nga. Giao hàng 2012-2015, tổng trị giá 1.400 triệu USD.
- Đóng đủ 12 tàu Molniya theo hợp đồng đã ký với Nga tháng 6/2003. Trị giá hợp đồng lúc đó là 120 triệu USD, không biết đã thanh toán chưa. (tham khảo
http://mdb.cast.ru/mdb/1-2004/ff/icfrad/).- Mua 2 tàu ngầm tiến công lớp Amur-1650 mang tên lửa Club-S giao hàng 2013-2015, tổng trị giá 600 triệu USD.
- Mua thêm 1 hệ thống tên lửa phòng thủ bờ biển Basion mang tên lửa Yakhont trị giá 125 triệu USD
- Mua 2 tàu đổ bộ LST lớp LKD-1700 của Nga trị giá 60 triệu USD.
- Đóng mới trong nước một số tàu đổ bộ hạng nhẹ cỡ 300-400 tấn.
- Đóng mới một số tàu vận tải và tàu hậu cần các cỡ như 600-1200-3600-6500 tấn.
- Trang bị cho hải quân đánh bộ 200 BTR-80A, trị giá 60 triệu USD.
- Trang bị cho hải quân đánh bộ 100 BMP-2M nâng cấp, trị giá 20 triệu USD.
- Trang bị cho hải quân đánh bộ 40 hệ thống phóng và 200 tên lửa chống tăng AT-13 Metis-M trị giá khoảng 10 triệu USD.
- Trang bị cho hải quân đánh bộ 40 hệ thống phóng và 200 tên lửa phòng không vác vai SA-18 Grouse trị giá khoảng 10 triệu USD.
Tổng trị giá: xấp xỉ 2.600 triệu USD
Phần còn lại (200 triệu USD) dành cho mua sắm các trang bị khác.
Như vậy, đến 2015, trang bị chủ yếu của Quân chủng Hải quân sẽ gồm:
- 2 tàu ngầm Amur-1650 mang tên lửa Club-S
- 4 tàu Frigate lớp Krivak-III (1135.6) mang tên lửa Club-N (SS-N-27)
- 6 tàu Frigate lớp Gepard 3.9 mang tên lửa Uran-E (SS-N-25)
- 14 tàu Molniya mang tên lửa Uran-E (SS-N-25)
- 4 Tarantul-I/II
- 2 hệ thống phòng thủ bờ biển Basion với tên lửa Yakhont
- 2 LST lớp LKD-1700
- 200 BTR-80A
- 100 BMP-2M
-40/200 AT-13 Metis-M
-40/200 SA-18 Grouse.